Pages

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Tôi và Việt Cộng (Tiếp theo)


Huỳnh Ngọc Chênh.


 
....một tuần sau ngày 30.4, tôi về lại Đà Nẵng.
Đà Nẵng đã hưởng hòa bình trước một tháng, gia đình tôi cùng nhiều bà con khác đang chuẩn bị trở lại quê nhà. Tôi ủng hộ quyết định nầy của ba tôi.
 
Mẹ tôi buôn bán tảo tần dành dụm được vài chục cây vàng mang ra bán dần để đổ tiền vào khẩn hoang ruộng đồng, gần chục ha ở quê ngoại Hòa Quý và 5 ha ở quê nội Hòa Xuân. Hồi đó phải thuê người rà gỡ bom mìn rất tốn kém.
 
Các chú, các bác, các cậu tôi đang từ miền Bắc trở về hoặc từ trên núi xuống đang giữ các cương vị kha khá ở Đà Nẵng cũng như ở Hòa Vang, đến gợi ý tôi tham gia vào chính quyền mới như làm công an, cán bộ huyện, ngành du lịch...nhưng tôi đều từ chối. Tôi thích về quê làm nông với ba mẹ và em gái của tôi.
 
Khi nằm ở Sài Gòn, nhiều đêm nhớ lại những ngày tháng nông tang ở quê nhà mà lòng quặn thắt. Ước nguyện của tôi là khi hòa bình lập lại nếu đường học dở dang thì sẽ về lại quê nhà vui thú với nghề nông mà trước đây chiến tranh khốc liệt đã làm cho đứt đoạn.
 
Nhưng làm nông khi tôi còn bé chỉ chạy theo làm những việc phụ thì nó vui vẻ và lãng mạn lắm. Bây giờ trở thành lao động chính thì nghề nông quả là rất nghiệt ngã với tôi. Không còn những đêm hè đầy sao và đom đóm, lũ trẻ chúng tôi chạy quanh sân vừa đạp lúa vừa chơi trò vật lộn, không còn những trưa hè nằm vắt vẻo trên chiếc võng treo dưới bóng râm nghe tiếng ve râm ran sau bửa cơm trưa giữa đồng, không còn chuyện tát nước đêm trăng rồi kéo nhau xuống mương tắm mát cùng ánh trăng....Đúng là hai lần không thể cùng tắm trên một giòng sông như triết gia gì đó của Hy Lạp đã nói.
 
Dù đã có thuê nhiều người làm, nhưng tôi cũng phải làm quần quật cùng ba mẹ và đứa em gái từ sáng sớm đến chiều tối. Thế nhưng sức trai hai mươi quá thừa năng lượng giúp tôi vượt qua và nhanh chóng thích nghi với công việc nặng nhọc.
 
6 giờ chiều đã ăn tối, nên tôi có một buồi tối rất dài. Tôi chong đèn dầu nằm đọc sách cả đêm. Những năm ở SG, lo học cấp tập rồi còn lo chuyện tranh đấu nên hầu như không có thì giờ đọc sách cũng như đầu óc rãnh rỗi để tiếp thu được nội dung của sách. Thời đó hầu như tháng nào gia đình gởi tiền vào tôi đều đi mua sách. Sau đó đi dạy thêm có tiền cũng chỉ mua sách. Mua để đó hoặc liếc qua chứ chưa có thời giờ đọc. Sau ngày 30.4, trước khi về lại Đà Nẵng tôi đã đảo một vòng lề đường SG mua được rất nhiều sách quý với giá rẻ mạt. Sách nầy do đám hôi của lấy từ các gia đình quyền thế bỏ chạy mang ra bán sôn.
 
Bấy giờ ở quê nhà đêm thanh vắng, tôi lần lượt gặm nhấm một cách thích thú những gì tôi mang từ SG về. Các tác phẩm của Tolstoi, Dostoievski, Victor Hugo, Charles Dicken, Nieztche, Herman Hess...tôi đọc được từ dạo ấy. Mỗi tuần tôi lại tự cho mình được nghỉ một hai ngày. Khi ấy tôi chạy xe xuống Đà Nẵng mượn sách tại thư viện công đoàn nằm ở ngã tư Lê Lợi -Hùng Vương. Tôi làm thẻ thư viện và quen với cô phụ trách ở đó nên mỗi lần tôi mượn được hàng đống sách. Đó là các tác phẩm của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp...và các sách về triết học Mác Lenin. Trong bốn tháng làm nông, tôi đã đọc say mê rất nhiều sách cũ và sách mới . Tôi tiếp thu chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử một cách nhanh chóng với niềm đam mê thích thú. Tôi là dân khoa học, hơn nữa năm lớp 12, tôi là học sinh rất giỏi môn triết. Hồ Chí Minh và Trường Chinh tôi không thích lắm nhưng tôi rất thích Lê Duẩn. Cuốn "Dưới lá cờ vẻ vang..." của ông giúp tôi khai phá ra bao nhiêu điều về chủ nghĩa xã hội. Vì quá say mê Lê Duẩn nên sau nầy tôi nhanh chóng bị hụt hẫng bởi chính ông ta. Khi đó tôi đã đi dạy học được một năm, một lần tôi vớ cuốn Stalin Tuyển tập trong thư viện nhà trường, đọc xong tôi ngỡ ngàng. Những gì Lê Duẫn viết đều gần như sao y từ Stalin, chỉ sửa lại đôi chữ cho phù hợp với Việt Nam. Ngay cả cái viết ra tưởng như từ sự xúc động chân thành tận đáy lòng là điếu văn đọc trước linh cửu HCM của Lê Duẩn cũng hao hao giống điếu văn của Staline đọc trước Lê nin. Không lâu sau đó, thần tượng Hồ Chí Minh cũng sụp đổ trong tôi khi tôi phát hiện ra tác giả Trần Dân Tiên ca ngợi bác Hồ hết lời trong tác phẩm "Những mẫu chuyện về cuộc đời hoạt động của bác Hồ" chính là Hồ Chí Minh. Trái tim hồn nhiên non trẻ của tôi bị một nhát đâm rướm máu.
 
Hồi đó tôi không lăn xăn tham gia vào chính quyền không có nghĩa là tôi không yêu chính quyền mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng dần dần những chuyện như vậy, rồi qua sách vở, lẫn những chuyện trong thực tế về sau nầy, tình yêu ấy mòn dần trong tôi...Tôi và lý tưởng cộng sản, ai đã phản bội ai?
 
Tôi sống đời nhà nông bốn tháng, thu hoạch được một vụ mùa cả lúa lẫn sắn khoai cũng kha khá. Tôi từ một thư sinh trắng trẻo biến thành một anh nông dân thực thụ, thô kệch, ốm o và đen đúa. Mẹ tôi thương tôi quá, bảo: Con xuống Đà Nẵng tìm việc gì đó làm cho nhàn nhã. Làm nông như vậy là đủ rồi, không phải là nghề của con. Ba tôi cũng nói : Chẳng lẽ cho con ăn học nhiều như vậy mà bây giờ lại về làm nông hay sao.
Tôi biết vậy nhưng thật tình tôi không biết cái bằng cử nhân hóa học của tôi sẽ xin vào làm công việc gì vào thời đó ngoài những việc ở các cấp chính quyền, ở công an, thuế vụ, du lịch, quản lý thị trường...tôi vốn không hề thích thú. Cuối cùng tôi thấy nghề dạy học là có thể sử dụng được chuyên môn của mình, hơn nữa lại không dính líu gì nhiều đến chính trị, tôi đi tìm tới ty Giáo Dục Quảng Nam Đà Nẵng.
 
Tôi nộp hồ sơ xin dạy học ngay cho trưởng phòng tổ chức. Anh ta còn khá trẻ, lớn hơn tôi chừng vài tuổi, mặt mày đăm đăm trông rất "cán bộ Việt Cộng". Anh đọc hồ sơ rồi nói:
 
- Lí lịch sao ghi đơn giản rứa.
Đúng vậy, lí lịch phần bản thân tôi chỉ ghi có mấy chữ:
1952: Sinh ra đời.
Từ 1957 đến 30.4. 1975: Đi học tại Hòa Vang, Đà Nẵng và Sài Gòn.
Không làm gì cho ta và cho địch.
Từ tháng 5.75 đến tháng 9. 75: Về quê làm ruộng.  
Cán bộ hỏi:
- Hồi sinh viên không tham gia chi hết hay sao?
- Ừ, không tham chi hết, chỉ biết đi học.
Cán bộ Việt Cộng lại hỏi:
- Ở Đại học Khoa Học có biết Huỳnh Văn Xuân không?
Tôi trả lời ngay:
- Biết chứ. Nhưng không biết mặt chỉ nghe tên. Anh ấy là một trong những lãnh tụ nhóm sinh viên Bừng Sống có tiếng. Khi tôi vào học thì nhóm ấy bị tan rã. Một số bị bắt, một số chạy lên núi. Tôi nghe Huỳnh Văn Xuân chạy lên núi không biết bây giờ ra sao.
Cán bộ hỏi:
- Làm sao biết Huỳnh Văn Xuân?
- Báo chí công khai cũng như báo chí bí mật của sinh viên tranh đấu có nhắc đến anh ấy.
Anh ta cười nói:
- Huỳnh Văn Xuân là tui đây. Có nguyện vọng chi không?
Tôi nói:
- Đi dạy học thôi chứ nguyện vọng chi.
 
Huỳnh Văn Xuân nói:
 
- Không muốn ưu tiên chi à? Mà đồng chí còn trai trẻ, tôi cử lên dạy trường miền núi mới mở, có chịu không?
-Ư, thì được chứ sao.
 
Sau nầy đi làm báo gặp lại Huỳnh Văn Xuân ở Sài Gòn, khi ăn nhậu với nhau tôi chọc quê y:
 
- Ông tưởng lúc ấy đày tôi lên miền núi tôi buồn lắm sao. Bao năm rồi tôi thầm biết ơn ông mà không có dịp gặp lại để cám ơn. Ông đưa tôi vào đúng một một ổ giáo viên nữ trẻ đẹp, hoặc chưa chồng, hoặc chồng đi học tập. Các cô ấy hầu hết đều ở Đà Nẵng nên đi dạy xa nhà phải ở lại tập thể với tôi. Các cô đều sợ ma, đêm đến tối thui, đi đâu cũng đều bấu lấy tôi. Mà tôi thì còn trai trẻ chưa vợ ...hì hì..
 
Đúng là những năm đi dạy học tuy có nghèo đói nhưng là những năm hạnh phúc nhất của tôi khi sống dưới chế độ Việt Cộng. Tôi được sống trong môi trường của những thầy cô giáo lưu dung trước 75, là những nhà giáo uy tín, giỏi chuyên môn, lịch lãm văn minh trong sinh hoạt, có tâm với học sinh. Họ là những trí thức tiểu tư sản thực thụ của thành thị miền Nam. Đó là những đồng nghiệp Nguyễn Văn Minh, Trần thị Quế Hương, Lê Mỹ Ý, Tống Viết Thụy, Tôn nữ Phương Tần, Thái Thị Mỹ Lý, Nguyễn Thị Tâm, Hồ Sỹ Thứ, Nguyễn Đình Sắt, Nguyễn Văn Gia, Đoàn Thị Ngọc Lan, Lê Thanh Xuân, Nguyễn Hoàng Thọ, Lê Thị Thanh, Hồ Điền, Phạm Hường, Phan Thanh Kế, Trần Thông, Trần Đại Tăng, Văn Công Liên, Phan Khắc Đồ...có người còn sống, có người đã chết mà hơn ba mươi năm qua tôi vẫn không quên.
 
Sau nầy tôi chuyển qua làm báo chẳng qua vì muốn tìm đường chuyển gia đình vào Sài Gòn cho con cái lên đại học đỡ phải xa nhà chứ tôi không yêu thích chi nghề báo mấy.

Tôi vẫn yêu nghề giáo. Nhưng tôi biết bây giờ trở lại trường học, môi trường giáo dục không còn như xưa.
Hai lần không thể tắm cùng trên một giòng sông
 

Không có nhận xét nào: